Xỉ lò cao là gì? Các công bố khoa học về Xỉ lò cao
Xỉ lò cao là chất thải được sản xuất khi quá trình luyện kim như luyện gang, luyện thép, luyện nhôm, luyện thiếc và luyện đồng. Xỉ lò cao chứa các thành phần nh...
Xỉ lò cao là chất thải được sản xuất khi quá trình luyện kim như luyện gang, luyện thép, luyện nhôm, luyện thiếc và luyện đồng. Xỉ lò cao chứa các thành phần như oxi, silic, canxi, nhôm và các nguyên tố khác. Nó thường có dạng bột màu đen hoặc nâu và có tính acid cao. Xỉ lò cao thường được sử dụng làm phụ gia trong sản xuất xi măng, đường, gạch, thủy tinh và trong ngành xây dựng.
Xỉ lò cao (hay còn gọi là XLC) là một chất thải phát sinh từ quá trình luyện kim, trong đó các loại quặng được chế biến để sản xuất kim loại như gang, thép, nhôm, thiếc và đồng. Khi quặng được luyện chảy để loại bỏ các tạp chất và tách các kim loại, xỉ hình thành như một phần không mong muốn của quá trình này.
Xỉ lò cao thường có thành phần chủ yếu là oxit kim loại, bao gồm oxi (O2), silic (SiO2), canxi (CaO), nhôm (Al2O3) và các nguyên tố khác như sắt (Fe), magiê (Mg), kẽm (Zn), chì (Pb), thủy ngân (Hg) và các chất hóa học khác. Ngoài ra, xỉ lò cao cũng chứa một số chất không hòa tan và tạp chất như sulfat, clorua và các chất hữu cơ, tùy thuộc vào quá trình luyện kim cụ thể được sử dụng.
Xỉ lò cao có màu sắc thường là đen hoặc nâu và có cấu trúc tương đối rời rạc. Nó có tính acid cao do chứa nhiều oxit kim loại và có khả năng tác động tiêu cực lên môi trường và sức khỏe con người.
Tuy nhiên, xỉ lò cao không phải là một chất thải vô dụng hoàn toàn. Nó có thể được sử dụng làm phụ gia trong sản xuất xi măng, đường, gạch, thủy tinh và trong ngành xây dựng. Việc tái sử dụng xỉ lò cao không chỉ giúp giảm khối lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường mà còn tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng trong quá trình sản xuất. Ngoài ra, xỉ lò cao cũng có thể được tái chế để sử dụng trong công nghệ khoáng chất và sản xuất phân bón.
Tuy nhiên, việc xử lý xỉ lò cao đòi hỏi quy trình phức tạp và cần sự chú ý đối với môi trường. Nếu không được xử lý đúng cách, xỉ lò cao có thể gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây hại cho đất, nước và hệ sinh thái xung quanh. Chính vì vậy, các biện pháp hợp lý cần được áp dụng để xử lý và tiến hành tái sử dụng xỉ lò cao một cách an toàn và bền vững.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xỉ lò cao":
Việc phát triển các vật liệu xây dựng mới, bền vững và giảm CO2 là cần thiết nếu ngành công nghiệp xây dựng toàn cầu muốn giảm dấu chân môi trường của các hoạt động của mình, điều đặc biệt là từ việc sản xuất xi măng Portland. Một loại xi măng không phải Portland đang thu hút sự chú ý đặc biệt là dựa trên hóa học kiềm-aluminosilicat, bao gồm một lớp chất kết dính đã trở nên được biết đến như là địa polyme. Những vật liệu này cung cấp các tính chất kỹ thuật tương đương với xi măng Portland, nhưng với dấu chân CO2 thấp hơn nhiều và với tiềm năng cho sự ưu việt về hiệu suất so với các loại xi măng truyền thống trong một số ứng dụng đặc thù. Bài đánh giá này thảo luận về tổng hợp các chất kết dính được kích hoạt kiềm từ xỉ lò cao, đất sét nung cháy (metakaolin), và tro bay, bao gồm phân tích các cơ chế phản ứng hóa học và sự phân bố pha chất kết dính kiểm soát các đặc tính trong giai đoạn đầu và khi cứng của những vật liệu này, đặc biệt là độ thiết lập ban đầu và độ bền lâu dài. Các triển vọng cho sự phát triển nghiên cứu trong tương lai cũng được khám phá.
Tỷ lệ tiêu thụ flavonoid thường xuyên có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Tuy nhiên, các tác động của từng flavonoid, chẳng hạn như quercetin, vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu hiện tại được thực hiện nhằm kiểm tra tác động của việc bổ sung quercetin lên huyết áp, chuyển hóa lipid, các chỉ số stress oxy hóa, viêm nhiễm và thành phần cơ thể ở một nhóm người có nguy cơ cao gồm 93 cá nhân thừa cân hoặc béo phì trong độ tuổi từ 25 đến 65 với các đặc điểm hội chứng chuyển hóa. Các đối tượng được ngẫu nhiên phân bổ để nhận 150 mg quercetin/ngày trong một thử nghiệm chéo mù đôi, đối chứng giả dược với các giai đoạn điều trị kéo dài 6 tuần, cách nhau bởi một giai đoạn rửa thuốc 5 tuần. Nồng độ quercetin trong huyết tương lúc đói trung bình đã tăng từ 71 lên 269 nmol/l (
Các enterotoxins (SE) G và I mới được mô tả gần đây ban đầu được nhận diện ở hai dòng riêng biệt của vi khuẩn Staphylococcus aureus. Trước đó chúng tôi đã chỉ ra rằng các gene tương ứng seg và sei hiện diện trong S. aureus ở vị trí liền kề trên một đoạn DNA dài 3.2-kb (Jarraud, J. et al. 1999. J. Clin. Microbiol. 37:2446–2449). Phân tích trình tự của DNA kề seg-sei và các vùng lân cận tiết lộ ba khung đọc mở giống enterotoxin liên quan đến seg và sei, được ký hiệu là sek, sel, và sem, cùng hai pseudogene, ψ ent1 và ψ ent2. Phân tích RT-PCR cho thấy rằng tất cả các gene này, bao gồm cả seg và sei, thuộc về một operon được gọi là cụm gene enterotoxin (egc). Các protein tái tổ hợp SEG, SEI, SEK, SEL, và SEM đều cho thấy hoạt tính siêu kháng nguyên, mỗi loại có một mô hình Vβ cụ thể. Các nghiên cứu phân phối các gene mã hóa siêu kháng nguyên trong các chủng S. aureus lâm sàng cho thấy hầu hết các dòng đều chứa các gene như vậy, đặc biệt là cụm gene enterotoxin, bất kể bệnh mà chúng gây ra. Phân tích phát sinh chủng loại của các gene enterotoxin chỉ ra rằng chúng đều có khả năng bắt nguồn từ cụm này, xác định egc như là một "vườn ươm" tiềm năng của các gene enterotoxin.
Cấu trúc hóa học của các lớp phim SiO2 mỏng, các oxit tự nhiên mỏng của GaAs (20–30 Å), và các giao diện oxit–bán dẫn tương ứng đã được điều tra bằng phương pháp quang phổ điện tử phát xạ tia X có độ phân giải cao. Các hồ sơ sâu của những cấu trúc này đã được thu được bằng cả hai kỹ thuật bắn phá ion argon và ăn mòn hóa học ướt. Sự phá hủy hóa học được gây ra bởi phương pháp định hình ion đã được chứng minh bằng cách so sánh trực tiếp các phương pháp này trên các mẫu tương tự. Các phương pháp giảm dữ liệu biến đổi Fourier dựa trên dự đoán tuyến tính với các ràng buộc entropy cực đại được sử dụng để phân tích cấu trúc rời rạc trong các oxit và nền tảng. Cấu trúc rời rạc này được giải thích thông qua một mô hình chuyển giao điện tích do cấu trúc gây ra (SICT).
Nghiên cứu nồng độ hemopexin, haptoglobin và heme trong huyết tương ở bệnh nhân có các bệnh tan máu khác nhau đã được thực hiện. Nồng độ hemopexin giảm chỉ khi nồng độ haptoglobin cũng giảm; không phải trong mọi trường hợp, nồng độ hemopexin đều giảm đến cùng mức độ với nồng độ haptoglobin. Hiện tượng nồng độ heme cao luôn luôn đi kèm với mức hemopexin thấp.
Nhờ vào nguồn tài nguyên kali phong phú và chi phí thấp, việc tìm kiếm các vật liệu phù hợp cho pin kali-ion (KIBs) đang phát triển như một lựa chọn đầy hứa hẹn thay thế cho pin lithium-ion. Tuy nhiên, các ion K có kích thước lớn và động lực chậm gây ra hiệu suất kém cho pin. Nghiên cứu này báo cáo về CoSe2 hình thoi kim loại được chỉ thị bởi ống nano carbon N-doped như một khung linh hoạt cho anode pin KIBs có hiệu suất cao. Tính chất kim loại của CoSe2 cùng với ống nano carbon N‐doped dẫn điện tốt sẽ tăng tốc độ truyền tải electron và cải thiện hiệu suất tỉ lệ. Khung ống nano carbon hoạt động như một xương sống để ngăn chặn sự tụ tập, neo giữ các vật liệu hoạt động và ổn định cấu trúc toàn bộ. Mỗi hạt CoSe2 hình thoi được sắp xếp dọc theo các ống nano carbon một cách tuần tự, và không gian rỗng hình zíc-zắc có thể chứa sự mở rộng thể tích trong quá trình lặp lại, do đó tăng cường sự ổn định trong chu kỳ. Lý thuyết tính toán chức năng mật độ cũng được sử dụng để nghiên cứu quá trình thâm nhập/khai thác ion K. Cấu trúc độc đáo này mang lại dung lượng cao (253 mAh g−1 ở 0.2 A g−1 trong 100 chu kỳ) và hiệu suất tỉ lệ cải thiện (173 mAh g−1 ở 2.0 A g−1 trong 600 chu kỳ) như một vật liệu anode tiên tiến cho KIBs.
Các xét nghiệm có độ nhạy cao này dựa trên sự tương tác giữa kháng thể tự động tại tuyến giáp và 125I-gắn kết kháng nguyên tự động. Các mẫu huyết thanh được ủ với thyroglobulin (Tg) hoặc peroxidase tuyến giáp (TPO) có gắn mác để cho phép hình thành phức hợp kháng thể-kháng nguyên. Các phức hợp sau đó được làm kết tủa bằng cách thêm Protein A ở pha rắn. Trong điều kiện có nồng độ cao của kháng thể TPO hoặc kháng thể Tg, hơn 50% kháng nguyên được gắn kết bị kết tủa, trong khi chỉ 1-2% bị kết tủa khi không có kháng thể tự động. Hệ số biến thiên liên xét nghiệm là 3.2% và 5.7% tương ứng với các xét nghiệm chống TPO và chống Tg. Không có sự phản ứng chéo giữa kháng thể Tg và kháng thể TPO. Kết quả tương quan đặc biệt cao với kết quả từ các hệ thống xét nghiệm khác dựa trên tế bào tráng kháng nguyên hoặc đế nhựa, nhưng các xét nghiệm được mô tả ở đây nhạy hơn đáng kể. Phân tích Scatchard của dữ liệu xét nghiệm cung cấp thông tin về ái lực và nồng độ huyết thanh của kháng thể tự động TPO (ka khoảng 10(9) L/mol và nồng độ lên tới 1 g/L) và kháng thể tự động Tg (ka khoảng 4 x 10(10) L/mol và nồng độ lên tới 1 g/L). Tổng thể, các xét nghiệm này cung cấp một hệ thống nhạy bén, chính xác, và tiện lợi để đo lường và điều tra các đặc tính của kháng thể tự động tại tuyến giáp.
Các công nghệ transistor màng mỏng có tính di động cao có thể được triển khai bằng những phương pháp chế tạo đơn giản và chi phí thấp đang rất được ưa chuộng vì tính ứng dụng của chúng trong nhiều lĩnh vực quang điện mới nổi. Tại đây, một khái niệm mới về transistor màng mỏng được báo cáo, tận dụng các tính chất dẫn điện electron được cải thiện của các dị thể polycrystal kích thước nhỏ và các siêu lưới tạm thời (QSLs) bao gồm các lớp xen kẽ của In2O3, Ga2O3 và ZnO được phát triển bằng cách quay đổ liên tiếp các tiền chất khác nhau trong không khí ở nhiệt độ thấp (180–200 °C). Các transistor QSL prototype tối ưu hóa cho thấy hiện tượng truyền tải như băng hẹp với độ di động electron khoảng gấp mười lần (25–45 cm2 V−1 s−1) so với các thiết bị oxit đơn (thường là 2–5 cm2 V−1 s−1). Dựa trên các phép đo truyền tải electron và điện dung-voltage phụ thuộc vào nhiệt độ, có thể cho rằng hiệu suất cải thiện là do sự hiện diện của các hệ thống điện tử tương tự như khí 2D hình thành tại các giao diện oxit được thiết kế cẩn thận. Khái niệm transistor QSL được đề xuất ở đây về nguyên tắc có thể mở rộng đến nhiều hệ vật liệu oxit khác và các phương pháp lắng đọng (phun tia, lắng đọng lớp nguyên tử, pyrolisis phun, lăn trên lăn, v.v.) và có thể được coi là một công nghệ cực kỳ hứa hẹn cho ứng dụng trong quang điện thế hệ tiếp theo như màn hình quang học siêu độ phân giải và vi điện tử diện tích lớn nơi mà hiệu suất cao là yêu cầu chính.
Lo âu về cái chết là một hiện tượng phổ biến trong tất cả các xã hội. Người cao tuổi có thể dễ bị lo âu về cái chết hơn so với những người trẻ tuổi; tuy nhiên, lo âu về cái chết ở người cao tuổi vẫn chưa được hiểu rõ. Nghiên cứu này khám phá mối quan hệ giữa ý nghĩa cuộc sống, sự tự tin và lo âu về cái chết ở người cao tuổi tại Trung Quốc.
Tổng cộng có 283 người cao tuổi tham gia vào nghiên cứu này; dữ liệu được thu thập thông qua Bảng hỏi Ý nghĩa Cuộc sống, Thang đo Sự tự tin Rosenberg và Thang đo Lo âu về cái chết.
Kết quả cho thấy rằng các khía cạnh của ý nghĩa cuộc sống, sự hiện diện của ý nghĩa (
Tổng thể, ý nghĩa cuộc sống dường như có mối tương quan đáng kể với lo âu về cái chết ở người cao tuổi, và sự tự tin có thể trung gian cho hiệu ứng này.
Trong kỷ nguyên trị liệu nhắm mục tiêu phân tử, khi có nhiều phương pháp điều trị hệ thống có thể được lựa chọn, các dấu ấn sinh học tiên đoán là cần thiết cho mục đích lựa chọn điều trị phù hợp với nguy cơ. Nhiều báo cáo về các bệnh ác tính khác nhau đã chỉ ra rằng sự tích tụ 18-Fluoro-2-deoxy-D-glucose (18F-FDG) được đánh giá bằng chụp cắt lớp phát xạ positron có thể được sử dụng để dự đoán tiên lượng của bệnh nhân. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của giá trị tiếp thu tối đa chuẩn hóa (SUVmax) từ chụp cắt lớp phát xạ positron 18-fluoro-2-deoxy-D-glucose/chụp cắt lớp vi tính (18F-FDG PET/CT) đến sự sống còn cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào thận (RCC) giai đoạn tiến triển.
Tổng cộng có 26 bệnh nhân mắc RCC giai đoạn tiến triển hoặc di căn đã được tham gia vào nghiên cứu này. Sự tiếp thu FDG của tất cả tổn thương RCC được chẩn đoán bằng CT thông thường đã được đánh giá qua 18F-FDG PET/CT. Tác động của SUVmax đến sự sống còn của bệnh nhân đã được phân tích theo kiểu điều tra.
Sự tiếp thu FDG đã được phát hiện ở 230 trong tổng số 243 tổn thương (94,7%) không bao gồm các di căn phổi hoặc gan có đường kính nhỏ hơn 1 cm. Giá trị SUVmax của 26 bệnh nhân dao động từ 1,4 đến 16,6 (trung bình 8,8 ± 4,0). Các bệnh nhân có khối u RCC cho thấy SUVmax cao có tiên lượng kém (
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10